Cỏ xước là cây gì? Đặc điểm của cây cỏ xước
Ở nhiều nơi tại vùng quê ở Việt Nam, cây cỏ xước là một loại cây dại rất đỗi quen thuộc. Nhưng chính vì cây mọc hoang ở nhiều nơi nên cũng có rất nhiều người không phân biệt được loại cây này, thường nhầm lẫn là một loại cỏ dại ven đường.
Thông tin về cây thuốc:
Tên dược liệu: Cây cỏ xước
Tên gọi khác: Ngưu tất, Nam ngưu tất, Hoài ngưu tất, Thổ ngưu tất, Ngưu tất nam, Bách bội, Ngưu kinh, Hồng ngưu tất, Ngưu tịnh
Tên khoa học cây cỏ xước: Achyranthes Aspera L
Thuộc họ Rau dền – Amaranthaceae
Đặc điểm thực vật của cỏ xước
Trong Y học cổ truyền, loại thảo dược này được gọi với cái tên phổ biến là ngưu tất. Lý giải về cái tên này như sau: “trên thân cây có các mấu phình to, có hình dáng tương tự như các khớp đầu gối đang bò trên mặt đất nên được đặt tên là ngưu tất. Ngưu nghĩa là bò, tất nghĩa là đầu gối”.
Bạn có thể nhận biết loại cây này qua những đặc điểm thực vật dưới đây:
Cây cỏ xước thuộc loại động vật thân thảo, có tuổi đời 3 đến 7 năm và rất dễ sinh trưởng trong nhiều điều kiện khí hậu.
Cây cao khoảng từ 0.5 đến 1m, thân có hình vuông, được bao phủ bởi một lớp lông mềm, các cành cây mọc đối xứng với nhau.
Rễ cỏ xước hình trụ dài, có màu vàng, rễ chính đâm sâu xuống đất phình to, các rễ con mọc đâm lan toả xung quanh.
Lá đơn nguyên mọc đối so le nhau, có hình trứng nhọn ở phía đầu, cuống lá nhỏ, lá dài khoảng 5 – 12cm, chiều ngang 2 – 4cm. Mép lá lượn sóng, có lá bắc nhọn, giống gai, thường dính vào quần áo khi vô tình chạm phải.
Cây có nhiều hoa, chủ yếu nở vào tháng 6 đến tháng 8, mọc thành chùm hoa dài 20 – 30cm ở đầu cành hoặc kẽ lá, mọc hướng thẳng lên trên, có màu trắng hoặc xám hơi đỏ.
Cây ra quả vào tháng 10, quả mỏng, có hình túi hoặc bầu dục, bên trong có chứa một hạt hình trứng dài.
Thu hái và chế biến
Khi dùng cỏ xước trị bệnh, người ta lấy toàn bộ cây. Quan trọng nhất vẫn là phần rễ, vì đây là nơi tập trung nhiều dưỡng chất chữa bệnh và được dùng nhiều nhất.
Cây thuốc được thu hái quanh năm, thu hoạch xong đem rửa sạch với nước muối pha loãng, vớt ra để ráo nước. Có thể dùng tươi hoặc đem phơi khô, bảo quản kín để sử dụng dần.
Rễ cỏ xước thường thu hoạch vào mùa đông, bởi khi trời lạnh, lá và thân của cây héo dần và cây tập trung nuôi dưỡng phần rễ. Khi đó, rễ sẽ tích hợp được nhiều dưỡng chất. Và đây cũng là thời điểm thích hợp đào lên làm thuốc.
Khi đào rễ, cắt bỏ những rễ con, mang rễ chính phơi khô, hơ lửa với lưu huỳnh. Tiếp đến chỉ cần cắt bỏ phần đầu và phần cuối của rễ và phơi khô là có thể làm thuốc chữa bệnh.
Dựa theo đặc điểm sinh học tự nhiên, các nhà khoa học phân chia dược liệu này làm 4 loại chính bao gồm Cỏ xước lông trắng, Cỏ xước Ấn Độ, Cỏ xước nguyên chùng, Cỏ xước màu xám đỏ. Trong số đó, cỏ xước lông trắng chứa nhiều dược tính nhất.
Tác dụng chữa bệnh của cỏ xước
Chữa đái ra máu: Dùng rễ cỏ xước 20g, củ mài (sao vàng) củ mài (sao vàng) 40g, hạt sen (sao vàng) 40g, bông mã đề lá trắc bách diệp (sao cháy), cỏ nhọ nồi (sao đen); tất cả tán thành bột mịn; ngày uống 2 lần, mỗi lần 12g.
Chữa sốt nóng, sổ mũi: Dùng cỏ xước, lá diễn, đơn buốt – mỗi thứ 30g; sắc nước uống.
Chữa quai bị: Dùng rễ cỏ xước, chế thêm nước, giã nát; gạn lấy nước xúc miệng và uống trong; bên ngoài giã rễ cỏ xước đắp lên chỗ sưng đau.
Chữa suy thận, phù thũng, nặng chân, vàng da: Rễ cỏ xước sao 30g, mã đề cả cây 30g, cúc bách nhật cả cây 30g, cỏ mực 30g, sắc ngày uống 1 thang, chia 2 – 3 lần, uống liền trong 7 – 10 ngày.
Chữa miệng lưỡi lở loét: Dùng cỏ xước một nắm, tẩm rượu nhai ngậm nuốt nước hoặc sắc nước ngậm và uống.
Chữa tiểu tiện đau buốt: Dùng cỏ xước một nắm (khoảng 20g); sắc nước uống (Nam dược thần hiệu).
Chữa đái đục: Dùng rễ cỏ xước 20g, củ mài 20g, ý dĩ 40g, rễ cỏ tranh 12g, rễ bấn trắng 12g, bông mã đề (sao) 12g; sắc nước uống trong ngày.
Chữa hóc xương thông thường: Dùng lá cỏ xước một nắm, nhai nuốt dần nước, bã đắp ở cổ.
Chữa đau nhức xương khi thời tiết thay đổi: Cỏ xước, 15 - 20g, sao vàng, hạ thổ, sắc nước uống trong ngày; uống theo từng đợt (15 ngày cho 1 liệu trình); rễ cỏ xước 40g, rễ lá lốt 20g, có thể thêm thân và rễ cây ké đầu ngựa 40g; sắc nước uống;
Chữa đau thần kinh tọa: Dùng rễ cỏ xước 20g, lá lốt 16g, thiên niên kiện 12g, củ ráy sao 12g, tô mộc 12g, cẩu tích 12g, đỗ trọng 16g, ngải cứu 12g, ý dĩ 20g, lá thông 12g, nước 1000ml sắc còn 300ml; chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa viêm mũi dị ứng: Rễ cỏ xước 30g, lá diễn, đơn buốt mỗi vị 20g sắc với 400ml nước còn 100ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Dùng trong 5 ngày.